Vật liệu công nghiệp là nguyên liệu đầu vào cho tất cả các ngành sản xuất công nghiệp cũng như có hiệu ứng lan tỏa, tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển nhiều ngành công nghiệp, như: Công nghiệp chế tạo, công nghệ thông tin, điện tử, hóa chất, các ngành công nghiệp công nghệ cao, các sản phẩm phục vụ cho sản xuất nông, lâm, thủy sản, chăn nuôi,…
Có thể kể tên một số loại vật liệu công nghiệp đáng chú ý như: Vật liệu hợp kim nhôm phục vụ cho nhiều ngành công nghiệp; vật liệu hợp kim (von-phram) phục vụ cho công nghiệp điện tử, công nghệ cao (CNC), quốc phòng; vật liệu kim loai đồng phục vụ cho công nghiệp dân dụng, quốc phòng; vật liệu kim loại thiếc phục vụ cho công nghiệp năng lượng, điện tử, điện thoại, linh kiện, phụ kiện; vật liệu chì-kẽm phục vụ phổ biến cho công nghiệp dân dụng, năng lượng, vỏ bọc cáp quang, quốc phòng,… vật liệu kim loại titan phục vụ cho công nghiệp CNC, sản phẩm chịu nhiệt độ cao, hàng không, y tế, dân dụng,… Vật liệu niken phục vụ cho quốc phòng, CNC, điện tử, nhiệt áp cao,…; Vật liệu từ các sản phẩm sau lọc hóa dầu; vật liệu hóa chất; vật liệu nhựa; vật liệu phục vụ phát triển ngành dệt may, da – giày; vật liệu xi măng;…
Các ngành công nghiệp vật liệu có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các thị trường sản xuất, là điều kiện cần thiết để phát triển nền công nghiệp hiện đại, đáp ứng yêu cầu hội nhập. Đây là yếu tố tác động mạnh tới tăng trưởng kinh tế, là cơ sở phát triển cho nhiều ngành, nghề và sản phẩm mới, tạo điều kiện khai thác tối ưu các nguồn lực phục vụ phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, vị thế cạnh tranh và tham gia toàn cầu hóa. Ở nước ta, phát triển ngành sản xuất vật liệu công nghiệp càng là một đòi hỏi tất yếu để đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, cụ thể:
– Vật liệu công nghiệp là yếu tố có tính nền tảng, là nguyên liệu đầu vào cho các thị trường sản xuất hàng hóa, có hiệu ứng lan tỏa, tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển các ngành công nghiệp khác, đặc biệt là ngành công nghiệp chế tạo, công nghệ thông tin, điện tử, hóa dẻo, công nghệ cao; phục vụ cho sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, chăn nuôi và chế biến sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu theo tiêu chuẩn quốc tế và tham gia chuỗi cung ứng, sản xuất, dịch vụ khu vực và quốc tế.
– Sản xuất vật liệu công nghiệp trong nước là yếu tố góp phần chủ động giải quyết việc làm, nâng cao năng suất lao động, thương hiệu sản phẩm quốc gia và cạnh tranh quốc tế, nâng cao sự tự chủ cho công nghiệp quốc phòng – an ninh, cung ứng vật tư cho các thị trường sản xuất trong nước, giảm nhập siêu, tăng giá trị xuất khẩu, nâng cao giá trị gia tăng, chất lượng sản phẩm của hàng hóa Việt Nam, bảo đảm tính ổn định, phát triển bền vững của doanh nghiệp.
– Sản xuất vật liệu công nghiệp có quy mô càng lớn thì giá thành càng rẻ, lợi nhuận và giá trị gia tăng càng cao, vì vậy phải lựa chọn được những lĩnh vực mà thị trường trong nước và quốc tế có nhu cầu lớn, sản phẩm kết tinh, chứa đựng hàm lượng khoa học – công nghệ cao, hiệu quả kinh tế đem lại lợi ích ngày càng nhiều cho các nhà sản xuất trong nước và cung cấp các loại vật liệu công nghiệp cho các nhà sản xuất có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam.
– Phát triển sản xuất vật liệu công nghiệp sẽ góp phần giảm mạnh nhập khẩu, ổn định kinh tế vĩ mô. Xây dựng chiến lược và tổ chức thực hiện có hiệu quả sản xuất vật liệu công nghiệp trong nước, Việt Nam sẽ có nhiều thị trường sản xuất vật liệu công nghiệp nội địa rộng lớn, chưa kể đến thị trường khu vực và quốc tế.
– Phát triển sản xuất vật liệu công nghiệp sẽ khắc phục được tình trạng xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản thô giá rẻ; qua đó sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên, nâng cao khả năng gia tăng giá trị sản phẩm, tạo thêm nguồn lực cho đất nước cả trước mắt lẫn lâu dài.
– Phát triển sản xuất vật liệu công nghiệp sẽ tranh thủ lợi thế từ các hiệp định thương mại quốc tế: với nhiều hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương được ký kết, trong đó Hiệp định Đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) được kỳ vọng sẽ mở ra giai đoạn phát triển mới cho nền kinh tế nếu như chúng ta có thực lực để hội nhập. Một trong số những điều kiện để được hưởng ưu đãi thuế quan là phải bảo đảm quy tắc xuất xứ, tự chủ được vật liệu. Có như vậy mới tạo ra được ưu thế lớn trong cạnh tranh và xuất khẩu hàng hóa.
– Phát triển sản xuất vật liệu công nghiệp góp phần nâng cao trách nhiệm, tranh thủ sự sáng tạo của các nhà đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện để các doanh nghiệp nước ta có chỗ đứng vững chắc, liên danh, liên kết hợp tác phát triển, nâng cao hiệu quả trong các chuỗi giá trị toàn cầu, hạn chế tình trạng Việt Nam chỉ tận dụng được lợi thế lao động giá rẻ nhưng giá trị gia tăng thấp, không chủ động được việc bảo vệ môi trường ngay từ trong nhà máy, đơn vị sản xuất, do việc khó tiếp cận khi kiểm tra giám sát (tại các cơ sở sản xuất của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp FDI)…
– Xây dựng và hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, định hướng đầu tư cho sản xuất vật liệu công nghiệp là đầu tư chiến lược cho sản xuất trước mắt và lâu dài, phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, là một trong những giải pháp quan trọng để thực hiện các hiệp định thương mại đã ký, thu hút các nhà đầu tư FDI, tiếp thu được nhiều loại hình công nghệ mới tiên tiến, hiện đại. Hiệu quả kinh tế của công nghiệp vật liệu được thu qua các chuỗi giá trị từ cung ứng, dịch vụ sản phẩm đến chuỗi sản xuất, kinh doanh của các thành phần kinh tế trong nước và các chuỗi giá trị kinh tế của khu vực và quốc tế.
Ngành sản xuất vật liệu trong giai đoạn 2010-2020 của nước ta đã và đang trở thành một trong những động lực cho phát triển ngành công nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. Một số sản phẩm vật liệu đã phục vụ đắc lực cho một số ngành công nghiệp, như: công nghiệp cơ khí (đóng tàu, ô tô, xe máy, linh kiện điện tử,…), công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng (VLXD) và kết cấu hạ tầng (giao thông, thủy lợi,…).
Việc sản xuất được một số loại vật liệu công nghiệp phục vụ cho sản xuất trong nước cũng đã góp phần giảm nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài và tối ưu hóa các chi phí đầu tư trong sản xuất của một số ngành công nghiệp.
Theo Báo cáo của Chương trình khoa học và công nghệ, thời gian qua chương trình đã thực hiện nhiều dự án sản xuất thử nghiệm. Chương trình đã có những kết quả đáng ghi nhận, nhiều sản phẩm đã bắt đầu được thương mại hóa, như: một số vật liệu như nanoclay MMT, bột huỳnh quang ba phổ, lốp máy bay bơm hơi không săm, lõi neo cáp bê tông dự ứng lực, màng bảo quản rau hoa quả-thực phẩm, sơn vô cơ chịu nhiệt, ván lát và ốp tường sử dụng trong ngành VLXD,… từ các kết quả nghiên cứu thời gian qua cho thấy nhiều sản phẩm đạt trình ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới, như: bột huỳnh quang ba phổ, lốp may bay hơi không săm, hoạt chất IAMS-M2-P, sáp phức hợp cho sản xuất thuôc nổ nhũ tương,…
Tuy nhiên, về tổng thể thì năng lực sản xuất của công nghiệp vật liệu nước ta vẫn còn nhỏ, năng suất và chất lượng còn nhiều hạn chế. Như tỷ lệ nội địa hóa sản xuất các loại vật liệu phục vụ cho ngành công nghiệp chế tạo còn thấp, như vật liệu gang chế tạo (đạt dưới 30%); vật liệu nhôm, vật liệu đồng (khoảng 5%); hóa chất cho ngành nhựa, cao su vẫn phải nhập khẩu đến 70%; nguyên liệu cho ngành dệt may phải nhập khẩu gần 90% vải, 80% sợi;…
Một số hạn chế, tồn tại của công nghiệp vật liệu ở nước ta hiện nay là:
– Chưa có các chính sách thực sự hiệu quả cho thu hút đầu tư và phát triển cong nghiệp vật liệu phục vụ sản xuất.
– Ngành công nghiệp vật liệu nói riêng và tổng thể ngành công nghiệp Việt Nam nói chung, chưa tạo lập được môi trường kinh doanh công nghiệp thuận lợi, minh bạch, ổn định và thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh.
– Chưa có các chính sách đủ mạnh để chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp theo hướng gia tăng các ngành công nghiệp vật liệu, vật liệu mới, sản phẩm công nghệ cao.
– Thiếu các chính sách đủ mạnh để tăng cường năng lực của các doanh nghiệp công nghiệp trong nước sản xuất vật liệu công nghiệp. Các chính sách thúc đẩy chuyển giao công nghiệp và khuyến khích nâng cao tỷ lệ nội địa hóa của các sản phẩm công nghiệp còn hạn chế.
– Hệ thống doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ (doanh nghiệp sản xuất linh phụ kiện và vật liệu) kém phát triển. Phần lớn doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ (CNHT) của nước ta hiện nay đều là doanh nghiệp vừa và nhỏ, trình độ sản xuất chưa cao.
– Chưa hình thành được các Tập đoàn công nghiệp có quy mô tầm cỡ khu vực trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo để tạo hiệu ứng lan tỏa cho đầu tư và phát triển công nghiệp vật liệu Việt Nam.
Tác giả: Phan Linh
Nguồn:Ban Chỉ đạo 35 Bộ Công Thương